Aspirin được phát hiện từ hơn 100 năm và là thuốc được dùng chủ yếu để giảm đau và chống viêm. Ngày nay, aspirin với liều thấp còn được sử dụng rất rộng rãi trong việc phòng ngừa các biến cố tim mạch (bệnh động mạch vành và tai biến mạch não) ở những bệnh nhân có nguy cơ cao về bệnh tim mạch hoặc đã bị các biến cố tim mạch.
Theo các kết quả nghiên cứu, mỗi năm aspirin có thể cứu sống hàng triệu người có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và tai biến mạch não. Thuốc cũng giảm khả năng tái phát ở những người bệnh đã có tiền sử bệnh tim mạch và đột quỵ cũ.
Các Hội Tim mạch trên thế giới đều khuyến cáo các bác sĩ kê aspirin cho những bệnh nhân thuộc nhóm bệnh này.
Thực tế, việc sử dụng aspirin không phải là tuyệt đối an toàn. Do đó, bạn và bác sĩ của bạn cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ khi dùng thuốc.
Những yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc điều trị bằng aspirin bao gồm: đang có bệnh lý gan hoặc thận, viêm loét dạ dày, bệnh đường tiêu hoá khác hoặc có xuất huyết tiêu hoá, có những bệnh lý khác về chảy máu, dị ứng với aspirin, uống rượu...
Tác dụng phòng ngừa của aspirin
Xơ vữa động mạch ngày càng phổ biến. Đây là hậu quả của quá trình tích đọng chất mỡ, cholesterol, các sản phẩm chuyển hoá tế bào, calci, và những chất khác ở lớp áo trong của động mạch. Kết quả là sẽ hình thành mảng xơ vữa.
Mảng xơ vữa thường gây tổn thương ở các mạch máu kích cỡ lớn và trung bình.
Mảng xơ vữa có thể phát triển đủ lớn để hạn chế đáng kể dòng máu lưu chuyển trong động mạch dẫn đến thiếu máu nuôi dưỡng cơ tim vùng phía sau và gọi là đau thắt ngực ổn định.
Tuy nhiên, có trường hợp tệ nhất là khi mảng xơ vữa này vỡ ra và kích thích hình thành cục máu đông. Cục máu đông có thể gây bít tắc hoàn toàn lòng mạch, hoặc bong ra và trôi đến một vùng nào đó của cơ thể.
Khi cục máu đông gây tắc mạch máu nuôi tim, sẽ gây ra cơn đau tim cấp (hay thường gọi là nhồi máu cơ tim). Còn khi gây tắc mạch máu nuôi não, sẽ là cơn tai biến mạch não. Đây là những bệnh nặng, có thể dẫn đến chết người hoặc để lại những hậu quả nghiêm trọng (tàn phế) nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Vấn đề phòng ngừa, không để xảy ra các biến cố này mới là điều quan trọng.
Aspirin thực chất là một chất giảm viêm chống đau và trước đây được chỉ định chủ yếu cho bệnh nhân bị đau, viêm khớp nhưng với liều cao.
Sau này người ta phát hiện thấy aspirin với liều thấp có thể ức chế sự ngưng kết tiểu cầu, là một loại tế bào máu có vai trò quan trọng trong việc hình thành cục máu đông. Do vậy, aspirin có thể giảm khả năng hình thành cục máu đông trong lòng mạch máu và tim nhờ đó ngăn ngừa được các biến cố tim mạch và đột quỵ.
Đối với bệnh tim mạch
Mỗi năm, trên thế giới có khoảng 16 triệu người chết vì bệnh tim mạch (trong đó chủ yếu là do nhồi máu cơ tim). Tại Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng 1,2 triệu người mắc bệnh động mạch vành. Trong số đó, gần 500.000 người đã tử vong. Thực tế, bệnh động mạch vành là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Mỹ.
Cơn đau tim xuất hiện khi một vùng cơ tim bị tổn thương hay hoại tử do đột ngột thiếu máu nuôi dưỡng, hoặc hoàn toàn không được tưới máu. Tình trạng này thường xuất hiện khi một mảng xơ vữa vỡ ra và cục máu đông hình thành. Cục máu đông sẽ gây bít tắc động mạch cung cấp ôxy và dinh dưỡng nuôi cơ tim.
Những người có nguy cơ đau thắt ngực cần được điều trị bằng aspirin liều thấp hàng ngày nếu có chỉ định của thầy thuốc. Điều này sẽ giúp ngăn ngừa các cơn đau ngực.
Aspirin cũng có vai trò quan trọng khi bệnh nhân đang lên cơn đau tim.
Trên thực tế, người bệnh thường được cho uống aspirin khi đang trên xe cấp cứu, hoặc khi ở phòng khám cấp cứu bệnh viện. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh việc sử dụng aspirin khi bắt đầu có triệu chứng sẽ cải thiện đáng kể khả năng sống sót của bệnh nhân.
Đối với những bệnh nhân sống sót sau cơn đau tim, aspirin liều thấp nên được dùng đều đặn. Nhờ tác dụng chống đông máu, aspirin giúp ngăn ngừa các cơn đau tim tái phát. Liều dùng mỗi ngày thường từ 75 đến 162 mg.
Với tai biến máu não
Mỗi năm, trên thế giới lại cũng có khoảng gần 20 triệu người bệnh bị tai biến mạch não. Riêng Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng 700.000 người bị tai biến mạch máu não. Gần 163.000 người trong số đó tử vong, khiến tai biến mạch não trở thành nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ ba. Đây cũng là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế.
Cơn tai biến mạch máu não xuất hiện khi một động mạch cấp máu nuôi não bị vỡ gây chảy máu (15-20%) hoặc bít tắc gây tắc mạch (80-85%). Khi những tế bào não tổn thương do thiếu máu và ôxy, bệnh nhân có thể bị liệt và rối loạn thị giác, cảm giác, cũng như chức năng nói.
Tai biến mạch não thường gây hậu quả rất nặng nề, do đó việc giảm nguy cơ mắc bệnh và hiểu biết rõ các dấu hiệu nguy hiểm là rất quan trọng. Những dấu hiệu này được liệt kê ở phần cuối bài này.
Aspirin có thể giúp ngăn ngừa nhồi máu não ở những bệnh nhân có tiền sử tai biến mạch não thoáng qua, hoặc những người vừa xuất hiện thiếu máu não (do nhồi máu não). Nguyên nhân dẫn đến nhồi máu não là do mảng xơ vữa trong động mạch vỡ ra, hình thành cục máu đông và gây bít tắc dòng máu.
Aspirin cũng là thuốc được khuyên dùng nếu bạn đã bị tai biến mạch não thoáng qua hoặc thiếu máu não cục bộ, với sự đồng thuận của bác sĩ điều trị.
Đối với bệnh nhân bị rung nhĩ
Rung nhĩ là tình trạng hai tâm nhĩ rung lên thay vì co bóp như thông thường. Máu không được tống hết khỏi tâm nhĩ, do đó sẽ ứ trệ trong buồng nhĩ và đông lại. Trên thực tế, khoảng 15-20% những ca tai biến mạch não xuất hiện ở các bệnh nhân rung nhĩ.
Vấn đề của bệnh rung nhĩ nằm ở chỗ: cục máu đông hình thành trong tâm nhĩ có thể đi vào hệ thống tuần hoàn và cuối cùng kẹt lại trong một mạch máu nhỏ trên não. Aspirin chống hình thành cục máu đông, do đó cũng có thể giảm nguy cơ đột quỵ ở các bệnh nhân rung nhĩ.
Tuy nhiên, đối với rung nhĩ, thuốc hàng đầu trong điều trị là thuốc chống đông đường uống (các thuốc kháng vitamin K hay dẫn xuất của coumadine).
Không được dùng aspirin ngay trong cơn tai biến mạch não khi chưa xác định rõ là bị chảy máu hay tắc mạch. Chỉ dùng aspirin khi chắc chắn là nhồi máu não (tắc mạch não) và không có chảy máu trong não (xuất huyết não).
Có nên dùng aspirin cho mọi trường hợp?
Đã có một số thử nghiệm lớn trên lâm sàng về việc dùng aspirin trong ngăn ngừa từ sớm các biến cố tim mạch cho những người không có yếu tố nguy cơ tim mạch. Kết quả của các nghiên cứu này chưa chứng minh được lợi ích của aspirin cho mọi người.
Trong một số trường hợp, nguy cơ gây chảy máu hoặc các tai biến khác liên quan dùng aspirin không thấp hơn lợi ích bảo vệ mà nó mang lại. Do vậy, hiện nay aspirin không được khuyến cáo dùng một cách rộng rãi nhằm mục đích phòng ngừa các biến cố tim mạch cho mọi người.
Bạn cần làm gì?
Giờ đây khi đã có kiến thức về aspirin, bệnh tim mạch, và tai biến mạch máu não, những việc bạn cần làm là:
Nếu được bác sĩ chỉ định dùng aspirin, bạn nên dùng thuốc liên tục và đều đặn. Bên cạnh đó, cần biết rõ các tác dụng phụ của thuốc. Những tác dụng phụ nghiêm trọng có thể xuất hiện khi bạn tự điều trị. Nếu gặp bất cứ tác dụng không mong muốn nào, hãy đi khám bác sĩ ngay lập tức.
Đảm bảo rằng bạn đã thông báo cho bác sĩ tất cả các thuốc, hay vitamin mình đang sử dụng. Chúng có thể ảnh hưởng đến việc điều trị aspirin của bạn.
Cùng bác sĩ đánh giá lại việc điều trị aspirin nếu bạn sắp phải phẫu thuật (ngay cả những phẫu thuật nhỏ). Aspirin tác động tới quá trình đông máu và có thể tăng thời gian chảy máu. Tác dụng của aspirin vẫn kéo dài đến ngày thứ 10 sau khi ngừng thuốc.
Duy trì một lối sống tốt. Không hút thuốc lá, kiểm soát huyết áp nếu có tăng huyết áp, tuân theo chế độ ăn ít chất béo và cholesterol và giữ nồng độ cholesterol ở mức cho phép. Vận động thể chất đều đặn (tổng cộng tối thiểu 30 phút một ngày, tất cả các ngày trong tuần) và giảm cân nếu có tăng cân. Cuối cùng, kiểm soát bệnh tiểu đường nếu có.
Dùng aspirin không thể thay thế cho những thói quen giữ gìn sức khoẻ.
Nắm vững những dấu hiệu cảnh báo của cơn đau tim và cơn tai biến mạch máu não để có hành động kịp thời.
Hiện nay, nhiều loại thuốc có nguồn gốc từ thảo dược được quảng cáo có tác dụng chống hình thành cục máu đông, hoặc có thể làm tiêu hủy cục máu đông và khuyên dùng cho các trường hợp bị bệnh mạch vành và nhồi máu não.
Tuy nhiên, các thuốc này còn thiếu bằng chứng khoa học về lợi ích phòng ngừa tắc mạch, hơn nữa chưa được quốc tế chấp nhận. Do vậy, người bệnh không tự động uống thêm các thuốc trên, đặc biệt là cho rằng có thể thay thế aspirin. Bạn cần tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa.
ThS. Đinh Huỳnh Linh
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét