Glôcôm là một bệnh lý của đầu dây thần kinh thị giác, tiến triển mãn tính, trên lâm sàng biểu hiện đặc trưng bởi tổn hại thị trường, lõm teo đĩa thị và thường liên quan đến một tình trạng nhãn áp cao.
Nguy cơ mù lòa
Bệnh glôcôm là một bệnh thường gặp, mang tính xã hội cao, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng vì là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây mù lòa vĩnh viễn trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Glôcôm đứng thứ hai trong các nguyên nhân gây mù loà ở hầu hết các khu vực trên thế giới, thường chỉ đứng sau đục thể thủy tinh. Bệnh nguy hiểm ở chỗ không có thuốc điều trị hoặc phẫu thuật nào có thể phục hồi được những tổn thương chức năng và thực thể do glôcôm gây ra.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2008 số người bị mù cả hai mắt do glôcôm chiếm 10% tỷ lệ mù loà chung. Theo các nghiên cứu mang tính dự báo trong khu vực và trên thế giới số lượng bệnh nhân glôcôm sẽ tăng lên đáng kể vào những năm tới, ước tính sẽ có 80 triệu người mắc bệnh glôcôm vào năm 2020, chiếm tỷ lệ 2,86% số dân số trên 40 tuổi.
Số người mù ngày càng tăng do sự bùng nổ của dân số thế giới. Đa số những người mù trên thế giới hiện nay sống ở các nước đang phát triển, đặc biệt trong nhân dân vùng nông thôn, nơi thiếu các dịch vụ chăm sóc mắt hoặc khó tiếp cận tới các dịch vụ đó.
47% người bệnh glôcôm thuộc về châu Á, hơn 75% trong số đó bị glôcôm góc đóng. Các nước Đông Nam Á vào năm 2010 sẽ có khoảng 4,2 triệu người bệnh glôcôm, và quần thể dân số trên 40 tuổi bị glôcôm chiếm tỷ lệ khoảng 2,38% (gần 2 triệu người). Vào năm 2020 thì số lượng này sẽ tăng lên khoảng 6 triệu người.
Ở Việt Nam qua điều tra RAAB (Rapid Assessment of Avoidable Blindnes) năm 2007 tỷ lệ bị mù 2 mắt do glôcôm ở người có độ tuổi ≥ 50 chiếm 6,5%, đứng thứ 2 trong các nguyên nhân gây mù (khoảng 24.800 người). Cho đến thời điểm hiện nay ở nước ta chưa có một nghiên cứu mang tính chất toàn quốc về đánh giá tỷ lệ mắc bệnh glôcôm trong cộng đồng.
Ai dễ bị glôcôm?
Những người trên 35 tuổi; những người ruột thịt của người bệnh glôcôm; những người có cấu trúc mắt nghi ngờ glôcôm: bán kính độ cong giác mạc nhỏ, tiền phòng nông, lõm đĩa thị rộng, chênh lệch độ lõm đĩa giữa 2 mắt, bị lão thị sớm, tăng số kính lão nhanh; người có nhãn áp ở mức ≥ 23 mmHg (đo nhãn áp kế Maclacốp).
Kèm theo các cảm giác chủ quan, triệu chứng khách quan đặc hiệu của glôcôm (rức nửa đầu hoặc cả 2 bên, mờ mắt, tức mắt, nhìn nguồn sáng thấy quầng tán sắc xanh đỏ...); người có nhãn áp hai mắt chênh lệch nhau quá 5 mmHg; người bệnh có tiền sử dùng corticoid kéo dài (tra mắt hoặc toàn thân); những người có bệnh toàn thân như đái tháo đường, cao huyết áp.
Bệnh glôcôm rất phức tạp do có rất nhiều hình thái với những cơ chế bệnh sinh, biểu hiện lâm sàng, đòi hỏi các phương pháp điều trị khác nhau. Glôcôm góc đóng thường có biểu hiện lâm sàng cấp tính nên người bệnh thường đi khám chữa ngay để thoát khỏi cơn đau nhức mắt. Glôcôm góc mở là hình thái bệnh mãn tính, không triệu chứng hoặc triệu chứng rất âm ỉ, mờ nhạt.
Có đến 50% người bệnh glôcôm góc mở và góc đóng mãn tính không biết là mình bị bệnh glôcôm. Chỉ đến khi thị lực giảm sút trầm trọng mới phát hiện ra để đi khám chữa bệnh thì đã quá muộn.
Ngoài ra, dựa trên cơ sở bệnh căn thì glôcôm có thể chia thành glôcôm nguyên phát và glôcôm thứ phát.
Glôcôm nguyên phát là hình thái glôcôm không kèm theo bệnh mắt hoặc bệnh toàn thân nào làm tăng trở lưu thủy dịch. Glôcôm thứ phát luôn kèm theo bệnh căn mắt hoặc bệnh toàn thân gây cản trở lưu thông thủy dịch.
Bệnh glôcôm nếu không được phát hiện và điều trị sẽ tiến triển qua các giai đoạn tiềm tàng, sơ phát, tiến triển, trầm trọng, gần mù và mù.
Bệnh glôcôm có biểu hiện như thế nào?
Triệu chứng cơ năng, dấu hiệu thực thể của bệnh phụ thuộc vào hình thái glôcôm.
Glôcôm góc đóng cơn cấp đau nhức mắt đột ngột dữ dội, lan lên đỉnh đầu; mắt đỏ, mi nề, sợ ánh sáng, chảy nước mắt; bệnh nhân nhìn mờ như qua màn sương, nhìn đèn có quầng xanh đỏ; kết mạc cương tụ rìa mạnh; giác mạc phù nề, tiền phòng nông, giảm tính trong suốt; đồng tử giãn méo, mất phản xạ, bờ đồng tử mất viền sắc tố, mống mắt cương tụ; thể thủy tinh mờ đục, có thể rạn bao thể thủy tinh; dịch kính phù nề, mất độ trong suốt, không soi rõ đáy mắt; soi góc tiền phòng: góc đóng toàn bộ chu vi, có thể có dính góc; nhãn áp tăng cao, nhãn cầu căng cứng như hòn bi.
Glôcôm góc đóng bán cấp thỉnh thoảng xuất hiện những cơn đau nhức mắt, nhức đầu thoảng qua kèm theo nhìn mờ. Qua cơn thị lực trở lại bình thường. Các cơn tăng dần về tần suất, mức độ, thị lực ngày càng giảm; kết mạc cương tụ nhẹ, giác mạc phù nề nhẹ, tiền phòng nông, đồng tử giãn méo, phản xạ kém, mống mắt có đám thoái hóa, mất viền sắc tố bờ đồng tử; thể thủy tinh và dịch kính phù nhẹ; soi đáy mắt thường thấy có lõm teo đĩa thị giác đặc hiệu của glôcôm; soi góc: góc tiền phòng đóng; nhãn áp cao; thị trường tổn hại tùy theo giai đoạn bệnh.
Glôcôm góc đóng mãn tính thường ít gặp và rất ít triệu chứng; không đau nhức hoặc đau nhức rất nhẹ; thị lực giảm dần, phần lớn bệnh nhân đến đã bị mù hoặc gần mù một mắt; kết mạc không cương tụ, giác mạc trong, tiền phòng nông, góc tiền phòng đóng; nhãn áp cao hoặc có thể không cao; lõm teo đĩa thị điển hình kiểu glôcôm; chức năng thị giác tổn hại nhiều (thị lực và thị trường).
Glôcôm góc mở xuất hiện âm thầm, tiến triển mạn tính, lần lượt qua từng giai đoạn, thị lực trung tâm thường được bảo tồn đến giai đoạn muộn của bệnh, người bệnh không nhận thấy thị lực ngày càng bị giảm nên thường đến khám ở giai đoạn muộn khi bệnh đã tiến triển nặng. Đa số người bệnh không đau nhức mắt hay đau nhức đầu, một số người có cảm giác nặng, căng tức mắt thoáng qua, nhìn mờ như qua màn sương, nhìn đèn có quầng xanh đỏ, xuất hiện thành từng cơn ngắn rồi lại tự hết. Triệu chứng không rõ ràng nên thường ít được người bệnh quan tâm.
Điều trị bệnh ra sao?
Bệnh glôcôm là một cấp cứu nhãn khoa. Bệnh nhân được điều trị ngay sau khi chẩn đoán bệnh bằng tra mắt và uống thuốc hạ nhãn áp.
Hiện nay trên thị trường Việt Nam có nhiều thuốc hạ nhãn áp với những cơ chế tác động khác nhau: pilocarpin, timolol, betoptic S, alphagan P, travatan, lumigan, azopt, acetazolamid, glyxerol, manitol… Các thuốc này phải được sử dụng theo chỉ định, dưới sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ nhãn khoa.
Glôcôm góc đóng thường được chỉ định điều trị phẫu thuật sau khi đã điều trị cấp cứu bằng thuốc. Mắt chưa bị lên cơn glôcôm cũng cần phải điều trị dự phòng bằng lade hoặc phẫu thuật. Glôcôm góc mở cần can thiệp phẫu thuật khi điều trị thuốc không đạt hiệu quả mong muốn.
Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam tuỳ thuộc điều kiện thực tế của người bệnh, cần chỉ định điều trị phẫu thuật sớm nếu người bệnh không có điều kiện kinh tế để mua thuốc hoặc không có điều kiện đi lại để thăm khám, kiểm tra, theo dõi định kỳ.
Bệnh glôcôm không thể chữa khỏi hoàn toàn.
Mục đích điều trị glôcôm là nhằm ngăn chặn bệnh không tiếp tục gây tổn thương đầu dây thần kinh thị giác. Trong nhiều trường hợp glôcôm tuy đã được phát hiện và điều trị song người bệnh cho rằng đã được chữa trị khỏi hẳn nên không đi khám, theo dõi tiếp. Hậu quả là bệnh vẫn âm ỉ tiếp tục tiến triển dẫn đến mất dần chức năng thị giác.
Bên cạnh đó trên nhiều người bệnh mặc dù nhãn áp đã được điều chỉnh bằng thuốc hoặc phẫu thuật nhưng vẫn tiếp tục bị tổn hại thực thể và chức năng vì mức nhãn áp “điều chỉnh” đó hoặc mức dao động nhãn áp trong ngày chưa an toàn cho thị thần kinh. Vì vậy người bệnh glôcôm cần phải được chăm sóc theo dõi thường xuyên, theo một quy trình chặt chẽ từ khi được phát hiện bệnh, được điều trị cho đến hết quãng đời còn lại nhằm kiểm soát được diễn biến bệnh, hạn chế tối đa tổn hại về thực thể và chức năng thị giác.
Đối với những người có nguy cơ cao mắc bệnh glôcôm nên đi khám kiểm tra mắt định kỳ theo hẹn của bác sĩ ở các cơ sở chuyên khoa mắt. Thời gian khám lại, theo dõi phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh và sự đáp ứng điều trị. Đặc biệt khi có các triệu chứng nghi ngờ của bệnh glôcôm người bệnh cần được khám ngay để phát hiện và điều trị bệnh kịp thời, tránh để bệnh kéo dài dẫn đến gây tổn hại thực thể nặng nề trong mắt.
PGS.TS.Đào Thị Lâm Hường
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét